TLGD – Sau khi Nghị định 66/2025/NĐ-CP ngày 12/3/2025 về “Quy định chính sách cho trẻ em, học sinh, học viên ở vùng đồng bào dân tộc thiểu và miền núi, vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo và cơ sở giáo dục có trẻ em nhà trẻ, học sinh hưởng chính sách” được ban hành và áp dụng ở địa phương, bên cạnh những đổi mới tích cực thì trên thực tế, nhiều học sinh địa phương vùng núi vẫn gặp không ít trở ngại…

Có thể thấy rằng, việc thay đổi tiêu chí trong thời gian ngắn đã khiến việc rà soát, cập nhật hồ sơ hoàn cảnh gia đình gặp nhiều vường mắc.
Từ ngày 01/5/2025, Nghị định 66/2025/NĐ-CP của Chính phủ chính thức có hiệu lực, thay thế cho Nghị định 116/2016/NĐ-CP ngày 18/7/2016 về “Quy định chính sách hỗ trợ học sinh và trường phổ thông ở xã, thôn đặc biệt khó khăn”. Song hành để triển khai thực hiện Nghị định là một số Quyết định như: Quyết định 861/QĐ-TTg ngày 04/6/2021 của Thủ tướng Chính phủ về “Phê duyệt danh sách các xã khu vực III, khu vực II, khu vực I thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2025” và Quyết định 612/QĐ-UBDT ngày 16/9/2021 của Ủy Ban Dân tộc về “Phê duyệt danh sách các thôn đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2025” .
Nghị định 66/2025/NĐ-CP ban hành với mục tiêu là mở rộng khung chính sách và nâng cao hiệu quả hỗ trợ. Đây được đánh giá như một động lực mạnh mẽ cho sự phát triển giáo dục vùng khó khăn. Cụ thể như mở rộng đối tượng nhận hỗ trợ; mức hỗ trợ tăng lên so với các chính sách cũ đối với học sinh bán trú, nội trú; giúp tăng cơ hội tiếp cận giáo dục cho trẻ em dân tộc thiểu số và vùng miền núi, thu hẹp khoảng cách giữa các vùng. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng tồn tại một số hạn chế, điển hình khi áp dụng ở địa phương xã Măng Đen, tỉnh Quảng Ngãi.
Khoảng trống chính sách sau khi Nghị định 116 hết hiệu lực
Trước đó, Nghị định 116/2016/NĐ-CP từng là “phao cứu sinh” cho hàng trăm nghìn học sinh vùng sâu, vùng xa. Chính sách này hỗ trợ tiền ăn, gạo, và chế độ bán trú cho học sinh ở xã đặc biệt khó khăn, giúp các em duy trì việc học dù đường sá xa xôi, điều kiện kinh tế nghèo nàn.
Tuy nhiên, khi nghị định này được thay thế bởi Nghị định 66, nhiều quy định về đối tượng, điều kiện, hồ sơ và tiêu chí vùng được điều chỉnh lại. Những thay đổi này khiến một số bộ phận học sinh từng được hỗ trợ trước đây nay không còn thuộc diện được nhận.
Tại một số trường vùng núi ở Quảng Ngãi, khi rà soát đối tượng theo tiêu chí mới, nhiều học sinh không còn đủ điều kiện theo Nghị định 66 dù hoàn cảnh gia đình không hề thay đổi. Điều này dẫn đến sự chênh lệch rõ rệt ngay trong cùng một lớp, một trường: Có học sinh được hỗ trợ đầy đủ, trong khi học sinh khác lại phải tự lo cơm ngày hai bữa.
Thầy Đặng Thanh Sơn – Hiệu trưởng Trường Tiểu học Thị trấn Măng Đen cho biết: “Năm học 2025 – 2026, Trường Tiểu học Thị trấn Măng Đen có 10 lớp tập trung tại 01 điểm trường chính và 01 điểm trường thôn, số học sinh dân tộc thiểu số chiếm 98,62% trên tổng số học sinh theo học. Khi áp dụng Nghị định 66, do thay đổi tiêu chí xác định vùng và đối tượng nên số lượng học sinh được thụ hưởng bị giảm. Số lượng học sinh bán trú theo Nghị định 66 chỉ còn lại 29 em, chiếm tỷ lệ 13,36%.”
Nỗi lo mới cho học sinh vùng khó ở xã Măng Đen
Xã Măng Đen – một địa bàn miền núi với tỷ lệ hộ nghèo cao, khí hậu khắc nghiệt, địa hình khó khăn, nhiều thôn nằm cách trường hàng chục cây số, học sinh người đồng bào dân tộc thiểu số là chủ yếu. Chính vì thế, địa phương này phụ thuộc khá lớn vào chính sách hỗ trợ của Nhà nước để học sinh có điều kiện đến lớp.
Khi Nghị định 66 có hiệu lực, số lượng học sinh được hưởng chế độ giảm đi đáng kể do thay đổi về tiêu chí xét duyệt. Nhiều học sinh dù thuộc hộ nghèo nhưng lại vướng thủ tục hồ sơ, hoặc không nằm trong nhóm ưu tiên theo phân loại vùng mới. Một giáo viên ở địa phương cho biết: “Nhiều hoàn cảnh nhà cách trường 8-10km, đường rừng dốc và trơn trượt. Không có chế độ bán trú, nhiều em không thể đi học đều. Có em nghỉ học giữa chừng vì gia đình không lo được tiền ăn”.
Trong khi đó, nhà trường lại khó khăn khi tổ chức bếp ăn và quản lý bán trú. Thực tế, tổng số học sinh đông, nhưng chỉ một phần được hỗ trợ theo chính sách, phần còn lại nếu muốn ăn tập trung phải đóng góp, điều mà nhiều gia đình nghèo ở Măng Đen không thể đáp ứng.
Thầy Sơn – Hiệu trưởng Trường Tiểu học Thị trấn Măng Đen xác nhận: Từ năm 2021 – 2022 đến nay, khi Quyết định 816/QĐ-TTg và Quyết định 612/QĐ-UBDT có hiệu lực thi hành thì nhà trường gặp rất nhiều khó khăn trong việc chăm sóc các em học sinh vì chế độ cho các em không còn, mà học sinh ở lại bán trú thì lại đông. Nhà các em ở các thôn cách điểm trường chính từ 5-13 km, thậm chí có trường hợp thôn làng cách điểm trường đến hơn 20 km nên không thể đi về trong ngày. Vấn đề đối tượng được thụ hưởng ít đã gây khó khăn trong việc chăm lo ăn ở của các em, vì phần lớn học sinh là người đồng bào dân tộc thiểu số, gia đình không có thu nhập ổn định và thường khoán trắng việc chăm sóc con cái cũng như giáo dục các em cho nhà trường.”
Có thể thấy được, với tình trạng trên, dường như không chỉ gia đình của em học sinh áp lực mà đến cả giáo viên ở các trường học tương tự cũng sẽ áp lực trong việc duy trì sĩ số lớp học hàng ngày.
Vướng mắc từ thủ tục và tiêu chí mới
Rất nhiều phụ huynh, đặc biệt tại vùng cao, gặp khó khăn khi chuẩn bị các loại giấy tờ xác nhận như hộ nghèo, hộ cận nghèo, hoặc minh chứng khoảng cách từ nhà đến trường. Trong khi đó, một số thôn trước nay luôn được xếp vào điện đặc biệt khó khăn thì theo phân loại mới lại không còn nằm trong danh mục. Có thể thấy rằng, việc thay đổi tiêu chí trong thời gian ngắn đã khiến việc rà soát, cập nhật hồ sơ hoàn cảnh gia đình gặp nhiều vường mắc. Điều này dễ dẫn đến tình trạng học sinh mất quyền lợi dù hoàn cảnh gia đình không thay đổi.
Thầy Hiệu trưởng Trường Tiểu học Thị trấn Măng Đen tâm sự: “Việc thay đổi tiêu chí Quyết định 861/QĐ-TTg, Quyết định 612/QĐ-UBDT và Nghị định 66/NĐ-CP khiến một số lượng không nhỏ học sinh không còn nằm trong diễn hỗ trợ, dù hoàn cảnh thực tế các em vẫn rất khó khăn. Mặc dù đối tượng của Nghị định 66/NĐ-CP được mở hơn so với Nghị định 116/NĐ-CP. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến động lực đến trường của học sinh, đặc biệt là nhóm học sinh dân tộc thiểu số ở những thôn làng vùng sâu, vùng xa. Một bộ phận phụ huynh lo lắng, băn khoăn, dẫn đến tâm lý ngại cho con theo học bán trú hoặc học xa nhà vì không thể đưa đón con trong ngày. Tôi nhận thức rằng, chính sách phải thay đổi theo điều kiện thực tiễn chung của đất nước, tuy nhiên với địa bàn đặc thù tại các thôn làng mà chủ yếu là người dân tộc thiểu số ở xã Măng Đen, tác động của những đổi thay này rõ rệt hơn và sâu sắc hơn.”
Trước đây, khi các văn bản, chính sách hỗ trợ cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn chưa được ban hành, không ít trường hợp học sinh có dấu hiệu nghỉ học đột xuất ở nhà phụ gia đình đi làm nương rẫy, đi học thiếu ngày vì hoàn cảnh không cho phép. Đây từng là vấn đề nan giải của các trường vùng núi, vùng sâu vùng xa. Mỗi giáo viên địa phương mang trong mình một trách nhiệm lớn lao, đến từng thôn làng, từng ngõ nhỏ để vận động gia đình cho con em đến trường học chữ. Sau này, có chế độ hỗ trợ học sinh vùng núi đến trường, đây chính là một trong những động lực lớn cho các em. Chính vì thế, cần có cơ chế thích hợp đối với việc rà soát kỹ lưỡng hoàn cảnh gia đình học sinh, thôn, làng để không “bỏ sót” bất kỳ hoàn cảnh khó khăn nào.
Trước thực tế đó, vẫn có nhiều nguyện vọng mong muốn được điều chỉnh tiêu chí vùng đặc biệt khó khăn phù hợp với điều kiện thực tế của từng địa phương miền núi nói chung và xã Măng Đen nói riêng. Dẫu biết, chính sách mới thể hiện kỳ vọng nâng cao hiệu quả hỗ trợ và đảm bảo công bằng giữa các vùng miền, tuy nhiên, trước những biến động trong giai đoạn chuyển tiếp đã vô hình chung tạo ra một khoảng trống ảnh hưởng trực tiếp đến cơ hội học tập của trẻ em vùng núi.
Tại đây, không chỉ riêng một tập thể trường học nào mà ngay cả nhiều địa phương, nhiều cá nhân cũng trăn trở, kỳ vọng cơ quan có thẩm quyền sớm có phương án thích hợp, hướng dẫn cụ thể, giúp việc thực hiện Nghị định 66 đi vào ổn định và tiếp tục đồng hành cùng học sinh khó khăn đến trường.
Nguyễn Nga
