Notice: A non well formed numeric value encountered in /home/urlblenvhosting/public_html/tamlygiaoduc.com.vn/wp-content/themes/soledad/functions.php on line 3784
2k
Điểm mới của chương trình
Tuy tên môn học không thay đổi so với chương trình cũ (Chương trình GDPT 2006), vẫn là “Lịch sử và Địa lí” nhưng cách thiết kế chương trình và việc lựa chọn nội dung giữa chương trình mới (Chương trình GDPT 2018) so với chương trình cũ có sự đổi mới rất lớn. Ở chương trình cũ, môn Lịch sử và Địa lí được triển khai dạy học theo từng bài học riêng lẻ và gần như độc lập với nhau, với hai phần riêng biệt (phần Lịch sử và phần Địa lí). Phần Lịch sử tuân thủ theo dòng thời gian lịch sử của Việt Nam từ buổi đầu dựng nước và giữ nước cho tới buổi đầu thời Nguyễn. Phần Địa lí phân chia theo không gian hiện tại của các vùng miền Việt Nam.
Ở chương trình mới, môn Lịch sử và Địa lí được triển khai dạy học theo từng chủ đề. Cấu trúc mỗi chủ đề mang tính tích hợp cao, nội dung phần lịch sử và nội dung phần địa lí được tích hợp với nhau, ngoài ra mỗi chủ đề còn tích hợp thêm các kiến thức văn hoá, xã hội… Ví dụ, chủ đề “Trung du và miền núi Bắc Bộ” bên cạnh nội dung kiến thức mang nhiều yếu tố lịch sử như “Đền Hùng và lễ giỗ Tổ Hùng Vương”, hoặc mang nhiều yếu tố địa lí như “Thiên nhiên”, hoặc “Dân cư”, hoặc “một số cách thức khai thác tự nhiên phục vụ cho sản xuất của con người”, chủ đề này còn được tích hợp nhiều kiến thức văn hoá – xã hội như: “lễ hội Gầu Tào, hát Then, múa xoè Thái, lễ hội Lồng Tồng, chợ phiên vùng cao”,…
Sự tích hợp đa dạng những kiến thức liên môn này trong một chủ đề bài học là điểm mới căn bản, khác biệt của chương trình mới so với chương trình cũ.
Bên cạnh đó, việc lựa chọn nội dung kiến thức lịch sử và địa lí của chương trình mới được thực hiện một cách triệt để hơn theo nguyên tắc “chuyển từ diện sang điểm”. Toàn bộ nội dung kiến thức lịch sử của chương trình mới không còn là “Các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử tiêu biểu, tương đối có hệ thống theo dòng thời gian lịch sử của Việt Nam” mà chỉ là những sự kiện/hiện tượng lịch sử tiêu biểu, xảy ra ở chính mỗi vùng, miền cụ thể. Ví dụ, chủ đề “Nam Bộ” thì nội dung lịch sử ở đây là “Địa đạo Củ Chi”, và lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh được đề cập với sự thay đổi tên gọi “Gia Định, Sài Gòn, Thành phố Hồ Chí Minh”,…
Nội dung kiến thức địa lí được lựa chọn phản ánh những nét khái quát nhất về vị trí địa lí, đặc điểm tiêu biểu về địa hình, khí hậu, sông ngòi; dân cư, hoạt động sản xuất và một số nét văn hoá.
Điểm mới nữa là chương trình mới tạo ra độ linh hoạt nhất định để nhà trường có thể điều chỉnh nội dung phù hợp với các địa phương với các nhóm đối tượng học sinh khác nhau. Điều này được thể hiện rất rõ trong mạch nội dung “Địa phương em”, theo đó, các địa phương căn cứ vào yêu cầu cần đạt quy định trong chương trình để xây dựng nội dung dạy học cụ thể phù hợp với đặc điểm của từng địa phương. Đồng thời, khi dạy về các vùng miền, nhà trường có thể linh hoạt trong việc sắp xếp thứ tự dạy học các vùng miền cho phù hợp với sự phát triển không gian từ gần đến xa của học sinh.
Những lưu ý khi dạy học
Về phương pháp dạy học, điểm lưu ý nhất trong dạy học môn Lịch sử và Địa lí lớp 4 theo chương trình mới là giáo viên giúp học sinh sử dụng các phương tiện học tập của môn học như: bản đồ, lược đồ, biểu đồ, tranh ảnh, hiện vật, nguồn tư liệu,… vào học tập môn học. Cụ thể, trong chương trình mới yêu cầu về sử dụng bản đồ/lược đồ được đặt ra hầu như xuyên suốt trong toàn bộ nội dung chương trình: từ nội dung địa phương em, các vùng miền cụ thể, các sự kiện, hiện tượng lịch sử… Chẳng hạn, yêu cầu cần đạt “Mô tả được một số nét chính về tự nhiên của địa phương có sử dụng lược đồ hoặc bản đồ” trong nội dung “Địa phương em”, “Xác định được vị trí của khu di tích Đền Hùng trên bản đồ hoặc lược đồ” trong bài “Đền Hùng và lễ giỗ Tổ Hùng Vương”, “Xác định được các di sản thế giới ở vùng Duyên hải miền Trung trên bản đồ hoặc lược đồ” trong chủ đề “Duyên hải miền Trung”,…
Ngoài ra, chương trình mới còn yêu cầu học sinh sử dụng tư liệu lịch sử, địa lí, văn hoá, tranh ảnh, hiện vật để nêu, trình bày, mô tả,… về một nội dung của bài học. Chẳng hạn, yêu cầu “Sử dụng tư liệu lịch sử và văn hoá dân gian, trình bày được những nét sơ lược về lễ giỗ Tổ Hùng Vương” trong bài “Đền Hùng và lễ giỗ Tổ Hùng Vương”, “Sử dụng các nguồn tư liệu lịch sử và địa lí, nêu được Hà Nội là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục quan trọng của Việt Nam” trong bài “Thăng Long – Hà Nội”,…
Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, giáo viên cần sử dụng linh hoạt và hiệu quả phương pháp sử dụng bản đồ, lược đồ, tranh ảnh, tư liệu trong dạy học môn Lịch sử và Địa lí ở cấp tiểu học, và đây được xem là phương pháp dạy học chủ đạo của môn học này.
Bên cạnh đó, chương trình mới đặc biệt quan tâm đến các phương pháp dạy học đặc trưng của môn học như: phương pháp quan sát/phương pháp trực quan, phương pháp điều tra/khảo sát, phương pháp kể chuyện lịch sử,…
Ngoài các phương pháp dạy học đặc trưng của môn học nêu trên, chương trình mới cũng hướng đến việc yêu cầu giáo viên sử dụng một số phương pháp dạy học tích cực như: Dạy học hợp tác, dạy học dự án, dạy học đặt và giải quyết vấn đề,…
Về hình thức tổ chức dạy học, ngoài các hình thức tổ chức dạy học trên lớp như: cá nhân, nhóm và cả lớp, với môn Lịch sử và Địa lí lớp 4, nhà trường và giáo viên cần đa dạng hoá các hình thức tổ chức dạy học bằng cách tổ chức dạy học ngoài lớp học như: học tập tại hiện trường, câu lạc bộ…Đây là những hình thức tổ chức dạy học đặc thù của môn Lịch sử và Địa lí.
Tổ chức dạy học tại hiện trường như: bảo tàng, di tích lịch sử, nhà truyền thống, địa chỉ đỏ…của địa phương là một hình thức tổ chức dạy học mang lại nhiều hiệu quả đối với môn Lịch sử và Địa lí. Việc thiết kế nội dung bài học theo vùng miền, địa phương với những đặc trưng nổi bật về thiên nhiên, lịch sử, văn hoá, con người,… của vùng miền, địa phương đó là một lợi thế cho việc tổ chức dạy học lịch sử, địa lí lớp 4 tại hiện trường. Tổ chức dạy học tại hiện trường đem lại hiệu quả cao vì học sinh được tiếp xúc với một trực quan hết sức sinh động: cảnh quan thiên nhiên, hoạt động sản xuất, hiện vật, di tích lịch sử,…Từ đó, làm giàu cho các em những biểu tượng lịch sử, địa lí cụ thể. Mặt khác, thông qua tiếp xúc thực tế như vậy, việc giáo dục đạo đức, giáo dục tư tưởng, tình cảm với học sinh được thực hiện một cách tự nhiên.
Bên cạnh dạy học tại hiện trường, tuỳ vào điều kiện cụ thể, nhà trường và giáo viên có thể tổ chức câu lạc bộ của những học sinh yêu thích môn Lịch sử và Địa lí trong phạm vi lớp học hoặc khối lớp. Hoạt động của câu lạc bộ được tổ chức dưới các hình thức như: gặp gỡ, giao lưu với nhân chứng lịch sử; xem phim, đọc và kể chuyện lịch sử, địa lí; sưu tầm tư liệu về lịch sử, địa lí; tổ chức triển lãm,… Trong triển lãm, học sinh có thể trình bày các bài báo tường, các bài viết về lịch sử, địa lí, các tranh ảnh sưu tầm, hoặc đồ dùng học tập lịch sử, địa lí học sinh tự làm,… Hình thức này có tác dụng mạnh mẽ trong giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức cho học sinh, các em được bày tỏ suy nghĩ và cảm xúc của mình. Đây là hình thức giáo dục truyền thống cho học sinh, giáo dục các em lòng biết ơn những người có công với đất nước, noi gương trong học tập.
PHAN DUY NGHĨA
(Phòng GDPT, Sở GDĐT Hà Tĩnh)